Home Vào công việc AI - Bán hàng & marketing Làng nghề tò he chuyển mình nhờ thương mại điện tử

Làng nghề tò he chuyển mình nhờ thương mại điện tử

0

Quảng bá sản phẩm làng nghề tò he. Ảnh: VGP/Thùy Linh

Làng nghề nặn tò he xã Phượng Dực (TP. Hà Nội) đã có lịch sử hơn ba thế kỷ. Nghề khởi nguồn từ việc các thế hệ nghệ nhân tạo hình chim, cò bằng bột nếp, gánh ra chợ quê bán. Qua thời gian, nghề dần hiện đại hóa, tò he được nặn bằng que để trẻ em chơi, màu sắc sử dụng phẩm màu thực phẩm an toàn, nguyên liệu vẫn giữ bột gạo nếp, nhưng sản phẩm bền hơn, trưng bày lâu hơn.

Chia sẻ với phóng viên, Nghệ nhân Đặng Văn Điền, người gắn bó với nghề từ khi mới lên 7, lên 8 tuổi chia sẻ: “Tôi gắn bó với nghề từ thủa nhỏ. Ban đầu, tôi theo nghề với mong muốn giữ gìn nét đẹp văn hóa của cha ông. Nhưng càng làm, tôi càng thấy yêu hơn công việc này. Tò he không chỉ mang lại niềm vui cho người xem, mà còn đem đến hạnh phúc và niềm tự hào cho chính tôi. Ngày xưa, tò he vừa chơi vừa ăn được, còn bây giờ chỉ để chơi, để trưng bày, nhưng lại bền và đẹp hơn rất nhiều”.

Thường xuyên tham gia các hội chợ, lễ hội và sự kiện quảng bá làng nghề như sự kiện Triển lãm A80 hay Hội chợ Mùa Thu lần thứ nhất-2025, mỗi lần trình diễn, đặc biệt là trước trẻ em, ông Điền đều nhận thấy sức hút đặc biệt của tò he: “Các bạn nhỏ rất thích những nhân vật hoạt hình. Còn với người lớn, tò he gợi lại một phần ký ức tuổi thơ đã xa”.

Tuy nhiên, bên cạnh niềm tự hào, nghề tò he cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Thị trường đồ chơi hiện đại ngày càng phong phú, thu hút giới trẻ hơn.

“Chúng tôi thường phải đi khắp các lễ hội xa nhà, thu nhập lại bấp bênh. Đến năm 2008, 2009, khi việc bán hàng rong bị siết chặt, chúng tôi không còn được bày bán ở cổng trường hay khu vui chơi. Lúc ấy, đồ chơi ngoại nhập tràn vào gây áp lực lớn cho đồ chơi truyền thống, nghề tò he gần như rơi vào bế tắc. Nhiều người phải bỏ nghề, nhưng tôi vẫn cố bám trụ vì nghĩ nếu mình không làm, nghề sẽ mất”, ông Đoàn chia sẻ.

Bên cạnh đó, nhiều người biết nghề nhưng ít ai gắn bó lâu dài. Theo nghệ nhân Đặng Văn Điền, nghề tò he chỉ đủ nuôi đam mê, chứ chưa thể nuôi sống gia đình. Ngày thường bán lẻ không đủ chi phí, chỉ đến mùa lễ hội hay hội chợ mới có thu nhập khá hơn.

Hiện tại, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số cũng mang lại nhiều thách thức và khó khăn lớn cho việc truyền nghề và dạy nghề. Thế hệ trẻ ngày nay là thế hệ của công nghệ hiện đại, vì vậy họ thường ít lựa chọn học nghề thủ công truyền thống. Hơn nữa, nghề tò he đòi hỏi thời gian học dài và kỹ thuật tỉ mỉ, để tìm được những người thực sự có đam mê với nghề không phải dễ…

Tận dụng livestream, tiktok để bán hàng

Tò he không còn bó hẹp trong không gian làng quê mà đã đến với khách hàng cả nước. Ảnh: VGP/TL

Nghệ nhân Đặng Văn Tiên, người có gần 30 năm gắn bó với nghề, đã cùng một số nghệ nhân làng nghề mạnh dạn chuyển đổi phương thức kinh doanh. “Chúng tôi đưa tò he lên sàn thương mại điện tử, hợp tác với trung tâm thương mại để trưng bày và bán sản phẩm. Nhờ vậy, tò he không còn bó hẹp trong không gian làng quê mà đã đến với khách hàng cả nước, thậm chí ra nước ngoài”, nghệ nhân Đặng Văn Tiên chia sẻ.

Nhờ tận dụng mạng xã hội, những buổi livestream nặn tò he trên TikTok, Facebook thu hút hàng trăm nghìn lượt xem. Nhiều Việt kiều và khách hàng quốc tế bày tỏ sự thích thú khi được chứng kiến trực tiếp quá trình tạo hình, coi đây là một trải nghiệm văn hóa độc đáo của Việt Nam.

Không dừng lại ở đó, các nghệ nhân còn nghiên cứu cải tiến nguyên liệu. Bột nếp được phối trộn với phụ gia tự nhiên giúp sản phẩm cứng cáp hơn, có thể vận chuyển xa mà không gãy hỏng. Điều này mở ra cơ hội xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, nơi có nhu cầu lớn về sản phẩm thủ công mang giá trị văn hóa.

Theo các nghệ nhân, nếu được hỗ trợ thêm về thiết kế bao bì, đăng ký thương hiệu và chứng nhận chất lượng, tò he hoàn toàn có thể trở thành một sản phẩm văn hóa xuất khẩu đặc trưng của Việt Nam, tương tự như búp bê Matryoshka của Nga hay quạt giấy Nhật Bản.

Tại xã Phượng Dực, số người làm tò he thường xuyên chỉ còn khoảng 10, còn lại hơn 40 người chỉ làm theo mùa vụ lễ hội. Để duy trì nghề, các nghệ nhân đã chủ động liên kết với trường học, đặc biệt là mầm non và tiểu học, tổ chức các lớp trải nghiệm. Trẻ em được trực tiếp nặn tò he, tìm hiểu về văn hóa dân gian và lịch sử làng nghề. Tuy nhiên, các lớp học này vẫn còn mang tính ngắn hạn, thường chỉ diễn ra vào dịp Tết hoặc hội chợ Xuân.

Nghệ nhân Đặng Văn Tiên đề xuất: “Thành phố nên có điểm trưng bày, trình diễn cố định tại công viên, trung tâm thương mại hoặc khu du lịch. Ở đó, nghệ nhân có thể biểu diễn, bán sản phẩm và truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ. Đồng thời, các trường học nên đưa hoạt động nặn tò he vào chương trình ngoại khóa để học sinh hiểu hơn về văn hóa truyền thống”. 

Nếu được quan tâm đúng mức, nghề tò he không chỉ được bảo tồn mà còn có thể phát triển thành một ngành kinh tế sáng tạo, gắn với du lịch và xuất khẩu sản phẩm văn hóa.

Các nghệ nhân tin rằng, với sự đồng hành của chính quyền, các nhà khoa học và cộng đồng, nghề nặn tò he sẽ không chỉ tồn tại như một ký ức tuổi thơ, mà sẽ tiếp tục phát triển, mang tinh thần Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

“Nghề tò he chỉ có thể tồn tại nhờ tình yêu nghề và sự quan tâm của xã hội. Chúng tôi hy vọng một ngày không xa, những con tò he sẽ được trưng bày tại các bảo tàng, cửa hàng lưu niệm và cả ở nước ngoài như một biểu tượng văn hóa Việt Nam”, nghệ nhân Đặng Văn Tiên chia sẻ.

Thùy Linh



https%3A%2F%2Fthanglong.chinhphu.vn%2Flang-nghe-to-he-chuyen-minh-nho-thuong-mai-dien-tu-103251110122242203.htm

Exit mobile version