Home Vào công việc AI - Bán hàng & marketing Siết chặt để tạo sân chơi bình đẳng

Siết chặt để tạo sân chơi bình đẳng

0

Luật Thương mại điện tử (TMĐT) được xem là bước ngoặt trong quản lý TMĐT xuyên biên giới, vừa bịt “khoảng trống” pháp lý, vừa tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phóng viên Tạp chí Kinh tế – Tài chính (Bộ Tài chính) đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thi, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam xoay quanh chủ đề này.

Luật TMĐT không chỉ khắc phục các lỗ hổng tồn tại mà còn góp phần tái định hình khung quản trị TMĐT xuyên biên giới theo hướng minh bạch, có trách nhiệm và bền vững.

Theo ông, những điểm mới trong Luật TMĐT hiện nay đã giải quyết được “khoảng trống” trong quản lý TMĐT xuyên biên giới?

Ông Nguyễn Văn Thi: Có thể khẳng định, Luật TMĐT đã chạm đúng những “khoảng trống” lớn nhất trong quản lý TMĐT xuyên biên giới suốt hơn một thập kỷ qua.

Ông Nguyễn Văn Thi, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam: Điểm tích cực là Luật TMĐT đã ràng buộc trách nhiệm liên đới giữa người bán, nền tảng và các đơn vị trung gian; yêu cầu các khâu logistics và thanh toán tham gia vào chuỗi kiểm soát; tạo cơ sở pháp lý cho việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa và dòng tiền.

Thứ nhất, Luật xác lập rõ ràng chủ thể pháp lý trong hoạt động TMĐT xuyên biên giới, bao gồm cả các nền tảng nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. Trước đây, nhiều sàn giao dịch hoạt động thực tế nhưng lại đứng ngoài khuôn khổ pháp luật, gây khó khăn trong quản lý thuế, bảo vệ người tiêu dùng và giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, Luật hoàn thiện cơ chế quản lý dữ liệu và trách nhiệm của nền tảng. Yêu cầu các sàn đăng ký, lưu trữ dữ liệu giao dịch và phối hợp với cơ quan quản lý giúp Nhà nước chuyển từ cách tiếp cận “xử lý từng vụ việc” sang quản lý dựa trên dữ liệu, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ ba, Luật đưa các hoạt động TMĐT trên mạng xã hội như livestream, bán hàng qua KOL/influencer (người có sức ảnh hưởng) vào phạm vi điều chỉnh. Đây là khu vực tăng trưởng nhanh nhưng còn nhiều “ vùng xám” pháp lý. Việc luật hóa tạo ra sân chơi bình đẳng hơn giữa xuất khẩu truyền thống và xuất khẩu số.

Tóm lại, Luật không chỉ khắc phục các lỗ hổng tồn tại mà còn góp phần tái định hình khung quản trị TMĐT xuyên biên giới theo hướng minh bạch, có trách nhiệm và bền vững.

Việc quy định rõ trách nhiệm của các sàn TMĐT xuyên biên giới (đăng ký, lưu trữ dữ liệu, phối hợp kiểm tra…) liệu có làm phát sinh rủi ro “quá tải tuân thủ” cho các nền tảng không, thưa ông?

Ông Nguyễn Văn Thi: Lo ngại về nguy cơ “quá tải tuân thủ” là hoàn toàn có cơ sở. Tuy vậy, tôi cho rằng đây là “cái giá tất yếu” của một thị trường đang trưởng thành.

Cần nhìn nhận rằng, các nền tảng TMĐT xuyên biên giới ngày nay không còn chỉ là bên trung gian thụ động, mà đã trở thành “người kiến tạo thị trường”, nắm giữ dữ liệu, dòng tiền và hành vi tiêu dùng. Khi quyền lực thị trường tăng lên, trách nhiệm pháp lý cũng buộc phải tương xứng.

Vấn đề vì thế không nằm ở việc có hay không áp đặt trách nhiệm, mà nằm ở cách thiết kế nghĩa vụ tuân thủ. Nếu các quy định được triển khai theo hướng: chuẩn hóa kỹ thuật, áp dụng cơ chế kết nối dữ liệu tự động, tránh trùng lặp, chồng chéo về báo cáo, thì gánh nặng tuân thủ sẽ giảm đáng kể, thậm chí còn giúp các nền tảng vận hành minh bạch và bền vững hơn.

Ở chiều ngược lại, Luật cũng tạo ra sân chơi bình đẳng, yêu cầu nền tảng nước ngoài tuân thủ tương tự doanh nghiệp trong nước. Về dài hạn, điều này mang lại lợi ích cho toàn bộ hệ sinh thái TMĐT Việt Nam.

Các quy định mới về trách nhiệm của người bán, đơn vị logistics, thanh toán… có đủ để kiểm soát hàng giả, hàng kém chất lượng, xâm phạm sở hữu trí tuệ không, thưa ông?

Ông Nguyễn Văn Thi: Luật TMĐT đã đặt nền móng đúng hướng. Tuy nhiên, để kiểm soát hiệu quả hàng giả và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ, chúng ta không thể trông chờ vào một đạo luật đơn lẻ.

Điểm tích cực là Luật đã ràng buộc trách nhiệm liên đới giữa người bán, nền tảng và các đơn vị trung gian; yêu cầu các khâu logistics và thanh toán tham gia vào chuỗi kiểm soát; tạo cơ sở pháp lý cho việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa và dòng tiền.

Dù vậy, hiệu quả thực thi trên thực tế sẽ phụ thuộc vào ba yếu tố bổ trợ như: liên thông dữ liệu giữa các cơ quan quản lý như thuế, hải quan, quản lý thị trường và công an; ứng dụng công nghệ, bao gồm Trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain (công nghệ chuỗi khối) và mã định danh sản phẩm; cơ chế xử phạt đủ sức răn đe, đặc biệt đối với các trường hợp cố tình tái phạm.

Nói cách khác, luật đóng vai trò “xương sống” nhưng “cơ bắp” phải đến từ công nghệ và khâu thực thi.

Theo ông, những quy định mới về kê khai và thu thuế đối với giao dịch B2C xuyên biên giới có giúp tạo sân chơi công bằng cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước? Làm sao để quản lý thuế hiệu quả nhưng không làm tăng chi phí quá mức cho doanh nghiệp nhỏ?

Ông Nguyễn Văn Thi: Về nguyên tắc, tôi đánh giá các quy định mới về thuế là một bước tiến quan trọng nhằm bảo đảm công bằng.

Trước đây, nhiều doanh nghiệp Việt, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, phí, trong khi không ít giao dịch B2C xuyên biên giới lại “lọt lưới”. Điều này làm méo mó cạnh tranh và gây thiệt thòi cho doanh nghiệp trong nước.

Luật TMĐT mới đặt nền tảng cho việc thu thuế ngay tại nguồn, thông qua các nền tảng và hệ thống thanh toán. Cách tiếp cận này giúp giảm chi phí tuân thủ cho từng doanh nghiệp nhỏ; hạn chế thất thu ngân sách; đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, để không tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, theo tôi cần đơn giản hóa thủ tục kê khai; áp dụng ngưỡng doanh thu hợp lý; tăng cường cơ chế khấu trừ tự động thay vì kiểm tra thủ công.

Nói ngắn gọn, quản lý thuế hiệu quả không phải ở việc “siết chặt” mà nằm ở thiết kế chính sách thông minh và dựa trên số hóa.

Doanh nghiệp nhỏ lo ngại chi phí tuân thủ tăng cao, ảnh hưởng sức cạnh tranh. Theo ông, những hỗ trợ nào (kỹ thuật, pháp lý, thuế, logistics) cần được triển khai để DNVVN không bị “lép vế” trên sân chơi toàn cầu?

Ông Nguyễn Văn Thi: Đây là câu hỏi then chốt nếu chúng ta thực sự muốn biến xuất khẩu số thành động lực tăng trưởng mới. Theo tôi, Nhà nước cần triển khai đồng bộ bốn nhóm hỗ trợ sau:

Thứ nhất, hỗ trợ kỹ thuật số: Xây dựng các nền tảng dùng chung cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, bao gồm kê khai thuế, truy xuất nguồn gốc và hợp đồng điện tử.

Thứ hai, hỗ trợ pháp lý và chuẩn mực: Ban hành bộ hướng dẫn thống nhất, dễ hiểu về TMĐT xuyên biên giới, thay vì để doanh nghiệp phải tự “bơi” trong ma trận quy định.

Thứ ba, hỗ trợ tài chính và thuế có mục tiêu: Áp dụng các ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu qua TMĐT trong giai đoạn đầu, nhất là khi thâm nhập những thị trường mới.

Thứ tư, hỗ trợ logistics và thanh toán quốc tế: Giảm chi phí vận chuyển, mở rộng hành lang thanh toán và tháo gỡ những “nút thắt” lớn nhất đối với xuất khẩu B2C.

Nếu thực hiện tốt những nhóm hỗ trợ trên, Luật TMĐT sẽ không chỉ là công cụ quản lý, mà còn trở thành bệ phóng giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua con đường số.

Xin cảm ơn ông.

https%3A%2F%2Fthuehaiquan.tapchikinhtetaichinh.vn%2Fluat-thuong-mai-dien-tu-siet-chat-de-tao-san-choi-binh-dang-136858.html

Exit mobile version