Home Vào công việc AI - Bán hàng & marketing Thách thức trong chuyển đổi số và những ưu tiên chiến lược...

Thách thức trong chuyển đổi số và những ưu tiên chiến lược của doanh nghiệp Việt Nam

0

Bài viết sử dụng bộ số liệu của Cục thương mại điện tử và Kinh tế số và phương pháp thống kê mô tả phân tích các hình thức thương mại điện tử (TMĐT) được các doanh nghiệp triển khai tại Việt Nam cho thấy kinh tế số Việt Nam năm 2023 đạt quy mô gần 30 tỷ USD, tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột.

Về các hình thức thương mại điện tử (TMĐT), doanh nghiệp đang áp dụng chiến lược đa kênh linh hoạt. Mạng xã hội và Sàn TMĐT là các kênh chủ lực, với xu hướng tăng cường tính tương tác trên website và giảm đầu tư vào ứng dụng di động riêng lẻ. Điều này đặt ra yêu cầu doanh nghiệp cần chuyển đổi số toàn diện và tối ưu hóa trải nghiệm khách hàng đa nền tảng để duy trì đà phát triển bền vững.

1. Đặt vấn đề

Nền kinh tế dựa trên Internet (Internet economy) là một thuật ngữ để mô tả các hoạt động kinh tế được thúc đẩy bởi Internet và các công nghệ kỹ thuật số liên quan. Nó bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế mà Internet đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, tiêu thụ, và trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Nền kinh tế dựa trên Internet không chỉ giới hạn trong một ngành kinh tế cụ thể, mà có thể áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại điện tử, giáo dục trực tuyến, công việc từ xa, dịch vụ tài chính trực tuyến, … (Nguyễn Tuấn Minh, 2024). 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, Kinh tế Internet đã trở thành một động lực tăng trưởng cốt lõi và không thể thiếu đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với nền tảng hạ tầng số ngày càng được cải thiện và tỷ lệ người dùng Internet cao, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường kỹ thuật số năng động nhất khu vực Đông Nam Á. 

Tuy nhiên, để hiện thực hóa tiềm năng trở thành nền kinh tế số phát triển, việc đánh giá chính xác quy mô, động lực tăng trưởng và thực trạng ứng dụng công nghệ số trong hoạt động kinh doanh là nhiệm vụ cấp thiết. Đặc biệt, việc xem xét các hình thức thương mại điện tử để có một hướng đi trong phát triển kinh tế là thực sự cần thiết.

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm phân tích chuyên sâu hai khía cạnh quan trọng. Thứ nhất, đánh giá quy mô và sự phân hóa của Kinh tế Internet Việt Nam trong giai đoạn gần đây. Thứ hai, nghiên cứu đi sâu vào phân tích thực trạng các hình thức thương mại điện tử mà doanh nghiệp Việt Nam đang triển khai. Mục tiêu dặt ra là cung cấp một bức tranh toàn diện và cập nhật về xu hướng phát triển của Kinh tế Internet Việt Nam. 

Kết quả phân tích sẽ làm rõ những thách thức về sự không đồng đều trong chuyển đổi số và những ưu tiên chiến lược của doanh nghiệp trong việc tận dụng các kênh số. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này kỳ vọng cho thấy bức tranh về hình thức TMĐT là cơ sở cho giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi số hiệu quả hơn, từ đó duy trì tốc độ phát triển ổn định và bền vững cho toàn bộ nền kinh tế số quốc gia.

2. Cơ sở lý luận

2.1. Khái niệm thương mại điện tử

Căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, (Chính phủ, 2013) hay Thương mại điện tử (Ecommerce/electronic commerce) là hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ trên Internet, nơi những cửa hàng truyền thống bước vào từ phố xá nhộn nhịp của thế giới thật, (Amazon global selling, 2023). 

2.2. Các hình thức thương mại điện tử

Điều 25, Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định các hình thức tổ chức hoạt động thương mại điện tử như sau:

Thứ nhất, website thương mại điện tử bán hàng là website thương mại điện tử do các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình.

Thứ hai, website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại. Website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử bao gồm các loại sau: (1) Sàn giao dịch thương mại điện tử; (2) Website đấu giá trực tuyến; (3) Website khuyến mại trực tuyến; (4) Các loại website khác do Bộ Công Thương quy định.

Thứ ba, các ứng dụng cài đặt trên thiết bị điện tử có nối mạng cho phép người dùng truy cập vào cơ sở dữ liệu của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để mua bán hàng hóa, cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, tùy theo tính năng của ứng dụng đó mà thương nhân, tổ chức phải tuân thủ các quy định về website thương mại điện tử bán hàng hoặc website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, (Chính phủ, 2013).

Bên cạnh đó, Bộ Công thương quy định cụ thể về các hoạt động thương mại điện tử tiến hành trên mạng viễn thông di động:  các ứng dụng di động trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, các ứng dụng mua bán, trao đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh toán khác, các ứng dụng thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán và dịch vụ tài chính, ứng dụng trò chơi trực tuyến, ứng dụng đặt cược hoặc trò chơi có thưởng. Các ứng dụng này chịu sự điều chỉnh của pháp luật quản lý chuyên ngành tương ứng, (Bộ Công thương, 2015).

3. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng Bộ số liệu của Cục thương mại điện tử và Kinh tế số và phương pháp thống kê mô tả trong phân tích từ đó cho thấy kinh tế Internet tại Việt Nam và 4 hình thức thương mại điện tử tại Việt Nam: Website doanh nghiệp, Kinh doanh trên mạng xã hội, Tham gia các sàn thương mại điện tử, Kinh doanh trên nền tảng di động.
 

4. Kết quả nghiên cứu 

4.1. Kinh tế Internet ở Việt Nam

Bảng 1 cho thấy quy mô nền kinh tế Internet Việt Nam năm 2023 có sự phát triển tương đối tích cực (tổng quy mô đạt gần 30 tỷ USD), mặc dù có sự phân hóa khá rõ rệt giữa các lĩnh vực. Việc đạt tổng quy mô như vậy tiếp tục khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế số trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa trực tuyến vẫn tỷ lệ đáng kể với 16 tỷ USD, tăng 6,67% so với năm 2022. Mức độ tăng này tuy thấp hơn đáng kể so với mức tăng trưởng 37% của năm 2022, phản ánh ánh xu hướng ổn định sau giai đoạn ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 và  sự điều chỉnh hành vi người tiêu dùng trong bối cảnh biến động thị trường  quốc tế, chi phí hậu cần tăng cường và  sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng.

Bên cạnh đó đó, lĩnh vực du lịch trực tuyến ghi nhận mức tăng trưởng vượt trội, đạt 5 tỷ USD năm 2023, tăng tới 66,67%. Đây là mình chứng cho sự phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch, nhờ nhu cầu du lịch trở lại, cùng với xu hướng sử dụng nền tảng đặt vé, đặt phòng trực tuyến ngày càng phổ biến. Hai lĩnh vực khác là vận động tải – thực phẩm và nội dung nghe nhìn trực tuyến duy trì quy mô tương đương năm trước, lần lượt 3 tỷ USD và 5 tỷ USD. Điều này phản ánh sự bão hòa sau giai đoạn tăng trưởng nhanh. Hành vi tiêu dùng thực phẩm và nội dung nghe nhìn trực tuyến trong giai đoạn bão hòa, thị trường ở mức ổn định.

Bảng 1. Quy mô nền kinh tế Internet tại Việt Nam năm  2022, 2023

Nguồn: Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2023)

Nhìn chung, số liệu cho thấy nền kinh tế Internet Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định, nhưng tốc độ không đồng đều giữa các chuyên ngành. Các lĩnh vực truyền thống như TMĐT hàng hóa vẫn tăng trưởng, nhưng chậm lại, trong khi ngành du lịch có sự bứt phá nhờ nhu cầu  du lịch tăng trở lại sau đại dịch.  Điều này có thể dự báo rằng có một sự duy trì ổn định trong thời gian tới và yêu cầu doanh nghiệp tiếp tục chuyển đổi số toàn diện, phát triển mô hình kinh doanh số linh hoạt và tập trung vào nâng cao trải nghiệm của khách hàng.

4.2. Thực trạng các hình thức thương mại điện tử

Theo số liệu khảo sát 5. 000 doanh nghiệp của Cục Thương mại điện tử và kinh tế số, trong đó 87% doanh nghiệp ngoài nhà nước, 7% doanh nghiệp nhà nước, 6% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực trạng các hình thức thương mại điện tử tại Việt Nam được phân tích bên dưới.

4.2.1. Website doanh nghiệp

Theo số liệu khảo sát của Cục Thương mại điện tử và kinh tế số có 46% doanh nghiệp xây dựng website riêng để phục vụ hoạt động quảng bá và kinh doanh. Trong số các doanh nghiệp có website thì 75% doanh nghiệp cho biết hiện nay đã tích hợp tính năng tương tác trực tuyến (Zalo, Facebook…) với khách hàng của mình trên chính các nền tảng website đó.

 Biểu 1. Tỷ lệ doanh nghiệp có website và website có tích hợp tương tác trực tuyến

Nguồn: Cục Thương mại điện tử và kinh tế số

Số liệu biểu 1 cho thấy web ứng dụng trong doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng chuyển đổi với tốc độ tương đối chậm và chưa đồng đều giữa các năm. Cụ thể, tỷ lệ doanh nghiệp sở hữu trang web tăng từ 43% năm 2021 lên 46% năm 2024. Điều này phản ánh  sự quan tâm của doanh nghiệp cho trang web trong hoạt động kinh doanh, quảng bá thương hiệu và hỗ trợ bán hàng trực tuyến. Tuy nhiên, mức tăng này khá nhỏ chỉ khoảng 3 phần trăm sau 3 năm, các doanh nghiệp đầu tư “dè dặt” vào nền số hoặc chọn các kênh mạng xã hội thay thế.

Một điểm đáng chú ý là tỷ lệ trang web tích hợp tính năng tương tác trực tuyến với khách hàng (như Zalo, Facebook, chatbot) có sự biến động qua các năm. Tỷ lệ Website của doanh nghiệp có tích hợp tính năng tương tác trực tuyến tăng từ 73% năm 2021 lên 78% năm 2022, sau đó giảm còn 66% năm 2023 trước khi hồi phục lên 75% năm 2024. Sự suy giảm năm 2023 có thể đến từ nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc thay đổi chiến lược chuyển hướng sang nền tảng thương mại điện tử và xã hội thay vì đầu tư sâu vào trang web. Tỷ lệ này tăng trở lại vào năm 2024 cho thấy doanh nghiệp ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc tối ưu trải nghiệm khách hàng, tăng cường tương tác và chăm sóc khách hàng đa kênh.

Thêm vào đó là trong số các trang web doanh nghiệp có tới 75% đã tích hợp công cụ tương tác trực tuyến, khẳng định xu hướng gắn kết trang web với các nền tảng mạng xã hội và ứng dụng tin nhắn để tạo ra trải nghiệm song song, sự phản hồi nhanh chóng và cá nhân hóa các dịch vụ. Điều này phản ánh chiến lược chuyển đổi số đang chuyển từ “có website” sang “trang web phải hoạt động”.

Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp có trang web vẫn còn thấp. Trong thời gian tới, cần thúc đẩy hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ trong xây dựng trang web tối ưu, đào tạo nhân lực và hỗ trợ công cụ số để trang web thực sự trở thành điểm nhấn trong mô hình kinh doanh đa kênh. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn thúc đẩy phát triển thương mại điện tử.

4.2.2. Kinh doanh trên mạng xã hội

Trong tổng số 5.000 doanh nghiệp có 52% doanh nghiệp cho biết có kinh doanh qua các mạng xã hội (Facebook, Zalo,Instagram…).
Dữ liệu về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên mạng xã hội giai đoạn 2020–2024 phản ánh xu hướng phát triển nhanh nhưng cũng có dấu hiệu điều chỉnh theo chu kỳ và nhu cầu thị trường. Năm 2020, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh qua mạng xã hội đạt 41%. Sau đó, giai đoạn 2021–2022 chứng minh khả năng tăng trưởng mạnh mẽ, lần lượt đạt 57% và 65%. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 dẫn tới mạng xã hội trở thành kênh bán hàng chủ lực, cùng với sự phát triển của thương mại xã hội và bán hàng trực tiếp trên các nền tảng xã hội như Facebook, Tiktok.

Biểu 2. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh trên mạng xã hội giai đoạn 2020 – 2024

Nguồn: Cục Thương mại điện tử và kinh tế số

Ngược lại, giai đoạn 2023 – 2024, tỷ lệ kinh doanh trên mạng xã hộiy giảm từ 58% xuống còn 52%. Điều này là do sự chuyển dịch của thị trường: nhiều doanh nghiệp có thể điều chỉnh chiến lược, quay lại mô hình bán hàng nhỏ hợp lý, tăng cường đầu tư vào trang web riêng hoặc sàn thương mại điện tử để xây dựng hệ thống bán hàng bền vững hơn. Ngoài ra, cạnh tranh ngày càng gay gắt, chi phí quảng cáo trên mạng xã hội tăng và yêu cầu chuyên nghiệp hóa nội dung cũng tạo ra một số doanh nghiệp nhỏ khó duy trì hiệu quả. Dù có xu hướng giảm song với tỷ lệ 52%  nhưng mạng xã hội đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược bán hàng của doanh nghiệp Việt Nam. Mạng xã hội vẫn là kênh tiếp cận khách hàng nhanh chóng, chi phí linh hoạt, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể và các ngành hàng tiêu dùng nhanh chóng. Tuy nhiên, hiện nay doanh nghiệp đang tăng dần sang mô hình kết nối đa kênh giữa mạng xã hội, trang web, sàn TMĐT và hệ thống truyền thông cửa hàng nhằm thúc đẩy hiệu quả tiếp thị tối ưu, quản lý dữ liệu khách hàng 

Trong thời gian tới, hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội được dự báo tiếp tục phát triển nhưng theo hướng chuyên nghiệp hóa, với sự nổi bật mạnh mẽ của TikTok Shop, thương mại phát trực tiếp, tiếp thị hỗ trợ AI và hệ thống quản lý đa kênh (CRM đa kênh). Doanh nghiệp cần chú ý xây dựng nội dung chất lượng, khai thác công cụ quảng cáo thông minh, kết nối trực tiếp với hệ thống bán hàng để đạt hiệu quả tối ưu.

4.2.3. Tham gia các sàn thương mại điện tử

26% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết có hoạt động kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử, hoạt động của các nền tảng này cũng dần được cộng đồng quan tâm nhiều hơn cả về khía cạnh chính sách thực thi và hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt trong nửa cuối năm 2024 xu hướng kinh doanh qua sàn thương mại điện tử được đông đảo doanh nghiệp ưu tiên.

Biểu 3. Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sàn TMĐT qua các năm

Số liệu biểu 3 cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia các sàn thương mại điện tử tăng đều qua các năm từ 22% năm 2020 lên 26% năm 2024. Mặc dù khả năng tăng không lớn theo từng năm nhưng xu hướng này phản ánh doanh nghiệp ngày càng thức nhận dạng rõ ràng hơn về vai trò quan trọng của sàn TMĐT trong chiến dịch phân phối và tiếp cận khách hàng. Trong giai đoạn 2020–2021, tỷ lệ ổn định ở mức 22%, nhiều doanh nghiệp ưu tiên mạng xã hội vì chi phí thấp, tính linh hoạt cao và dễ bắt đầu, do đó, từ 2022 trở đi, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia sản TMĐT tăng dần bắt đầu chuyển dịch sang mô hình bán hàng bài bản hơn, đầu tư vào kênh có tính ổn định.
Đặc biệt, trong nửa cuối năm 2024, bán hàng trên sàn TMĐT được nhiều doanh nghiệp ưu tiên hơn, một phần nhờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, các chương trình ưu đãi của sàn, sự đa dạng của mô hình thanh toán điện tử và dịch vụ hậu cần hoàn thiện. Cùng với đó, sự bùng nổ của thương mại xã hội và  việc phát trực tiếp cũng tạo ra đòn bẩy cho các sàn TMĐT tích hợp các công cụ tương tác, giúp doanh nghiệp tiếp cận khách hàng rộng hơn và nâng cao tỷ lệ chuyển đổi số. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia mới đạt 26% cho thấy vẫn còn nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa tận dụng hết nguồn năng lượng của kênh này. Điều này là do hạn chế về nguồn lực, năng lực hành động TMĐT, hoặc tâm lý e ngại.

Nhìn chung, xu hướng tăng ổn định phản ánh sự tăng trưởng của thị trường TMĐT Việt Nam, trong đó sàn TMĐT đóng vai trò trung tâm trong hệ sinh thái bán lẻ số. Trong thời gian tới, để thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp tham gia mạnh hơn, cần tiếp tục hỗ trợ đào tạo kỹ năng số, tối ưu chi phí logistics, …

4.2.3. Kinh doanh trên nền tảng di động

15% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết đã xây dựng các ứng dụng TMĐT (app) trên thiết bị di động, giảm nhiều so với tỷ lệ này của các năm trước đó. Trong đó 46% cho biết Doanh  nghiệp có cho phép người mua thực hiện toàn bộ quá trình mua sắm trên ứng dụng di động.

Biểu 4. Tỷ lệ doanh nghiệp có xây dựng các ứng dung TMĐT (app) trên thiết bị di động

Số liệu biểu 4 cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp xây dựng ứng dụng thương mại điện tử trên thiết bị di động có xu hướng giảm trong năm 2024, chỉ còn 15% so với mức 22% vào năm 2022 và 20% vào năm 2023. Giai đoạn 2021–2022 ghi nhận mức tăng trưởng từ 17% lên 22%, phản ánh tốc độ chuyển đổi số khi ứng dụng công cụ mua sắm nhằm giữ chân khách hàng và xây dựng dữ liệu người dùng theo tệp riêng biệt. Tuy nhiên, từ năm 2023 đến năm 2024, tỷ lệ này giảm đáng kể, cho thấy doanh nghiệp đang điều chỉnh chiến lược sau khi đánh giá chi phí  và hiệu quả của việc phát triển, vận động hành động ứng dụng. Việc phát triển ứng dụng di động yêu cầu đầu tư lớn về tài chính, nhân lực kỹ thuật, bảo trì và tiếp thị để duy trì lượng người dùng. Điều này tạo ra sức ép lớn đối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt với các siêu ứng dụng (Shopee, Lazada, TikTok, Grab, Zalo), nhiều doanh nghiệp chuyển sang ưu tiên các nền tảng linh hoạt hơn như trang web cho thiết bị di động và nền tảng mạng xã hội, nơi chi phí thấp nhưng hiệu quả tương tác cao. 

Nhìn chung, phân tích cho thấy doanh nghiệp chỉ đầu tư ứng dụng khi có đủ nguồn lực và lượng khách hàng trung thành đủ lớn. Trong thời gian tới, việc phát triển ứng dụng di động vẫn có vai trò quan trọng, nhưng chủ yếu dành cho doanh nghiệp quy mô lớn hoặc mô hình kinh doanh đặc thù. Với phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, ưu tiên hiện nay là trang web tối ưu, phát triển đa kênh và tận dụng nền tảng TMĐT.

5. Kết luận

Nghiên cứu cho thấy ền kinh tế Internet Việt Nam năm 2023 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ với tổng quy mô đạt gần 30 tỷ USD, khẳng định vai trò ngày càng then chốt của kinh tế số. Về các hình thức thương mại điện tử, doanh nghiệp đang chuyển dịch sang chiến lược đa kênh linh hoạt. Mạng xã hội vẫn là kênh bán hàng phổ biến, song tỷ lệ tham gia Sàn TMĐT đang tăng dần, cho thấy xu hướng chuyên nghiệp hóa hệ thống phân phối sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng đang tối ưu hóa trải nghiệm khách hàng thông qua tích hợp tương tác trên Website, đồng thời có xu hướng giảm trong việc đầu tư vào các ứng dụng di động riêng lẻ do chi phí và cạnh tranh. Tóm lại, sự phát triển này yêu cầu doanh nghiệp phải tiếp tục chuyển đổi số toàn diện, tập trung vào tối ưu hóa hệ sinh thái bán hàng đa kênh để duy trì sức cạnh tranh trong môi trường số.

Tài liệu tham khảo

Amazon global selling (2023). Thương mại điện tử là gì? Định nghĩa, phân loại, ưu điểm và nhược điểm. Trung cập tại: https://sell.amazon.vn/blog/danh-cho-nguoi-moi/thuong-mai-dien-tu-la-gi

Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2023). Thương mại điện tử Việt Nam 2023. Bộ Công thương, Hà Nội.

Chính phủ (2013).  Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 05 năm 2013 về Thương mại điện tử.

Bộ Công thương (2015). Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động.

Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2025). Báo cáo Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2025. 

Nguyễn Tuấn Minh (2024). Nền kinh tế Internet là gì? Truy cập tại: https://mn.com.vn/hoc-kiem-tien-truc-tuyen/nen-kinh-te-internet-la-gi

Dương Thị ThànhNguyễn Thị DungPhạm Thị Phượng, Nguyễn Thị Thanh Minh

Trường Đại học Nông – Lâm Bắc Giang



https%3A%2F%2Fdoanhnghiepkinhtexanh.vn%2Fthach-thuc-trong-chuyen-doi-so-va-nhung-uu-tien-chien-luoc-cua-doanh-nghiep-viet-nam-a42840.html

Exit mobile version