Hộ kinh doanh chuyển lên doanh nghiệp có thể được miễn thuế 2 năm Đừng để “giấy phép lồng giấy phép” khi quản lý kinh doanh vàng |
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý thuế cho thấy một số quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành chưa phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội và quy định của luật chuyên ngành như: Quy định về quản lý thuế chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế số, trong bối cảnh thương mại điện tử xuyên biên giới bùng nổ nhưng chưa có các công cụ pháp lý phù hợp để quản lý doanh thu và thu thuế từ các nền tảng số, sàn giao dịch trực tuyến, các doanh nghiệp công nghệ nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam nhưng vẫn thu được lợi nhuận đáng kể từ thị trường nội địa.
Đặc biệt, doanh thu từ hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử ngày càng lớn nhưng số thu thuế lại rất nhỏ, không tương xứng với quy mô của loại hình kinh doanh này.
Bộ Tài chính cũng chỉ ra pháp luật về quản lý thuế hiện nay hạn chế trong ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số như: Chưa tạo hành lang đầy đủ cho việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến như dữ liệu lớn (big data) và Trí tuệ nhân tạo (AI) trong phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro thuế. Khung pháp lý cho quản lý thuế điện tử tiến tới quản lý thuế số còn thiếu và chưa đồng bộ.
Hệ thống ứng dụng phục vụ nghiệp vụ quản lý thuế lõi hiện chưa được tập trung, đồng bộ đầy đủ các chức năng. Tốc độ chuyển đổi số trong quản lý thuế chưa theo kịp xu thế chung của thế giới là đẩy mạnh xây dựng hệ thống thuế thông minh với khả năng tự động hóa cao, tích hợp đa nền tảng và thân thiện với người dùng.
Hạn chế trong kiểm soát gian lận: Thực trạng gian lận và trốn thuế đang diễn biến ngày càng tinh vi và phức tạp. Các hành vi vi phạm không chỉ dừng lại ở việc kê khai sai lệch, giấu doanh thu hay lập hóa đơn khống đơn thuần, mà đã phát triển thành các thủ đoạn có tổ chức với quy mô lớn, liên quan đến nhiều chủ thể và địa bàn khác nhau.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử ngày càng lớn nhưng số thu thuế lại rất nhỏ, không tương xứng với quy mô của loại hình kinh doanh này. |
Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng gian lận trong các giao dịch xuyên biên giới, nơi kẽ hở về cơ chế giám sát và sự khác biệt giữa các hệ thống thuế quốc gia tạo điều kiện cho hành vi trốn thuế. Các doanh nghiệp đa quốc gia thường lợi dụng việc chuyển giá, phân bổ lợi nhuận và các giao dịch phức tạp giữa các công ty liên kết để tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế.
Trong khi đó, công cụ và năng lực giám sát của cơ quan thuế còn hạn chế, thiếu cơ chế trao đổi thông tin tự động với các nước, cũng như thiếu các giải pháp công nghệ hiện đại để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận. Điều này đòi hỏi cần có sự đổi mới toàn diện trong cả khung pháp lý và công cụ quản lý để tăng cường hiệu quả kiểm soát gian lận thuế.
Do đó, theo Bộ Tài chính, việc xây dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi) nhằm tăng cường kiểm tra chặt chẽ với các hành vi trốn thuế và gian lận thuế. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách Nhà nước. Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh sau khi xóa bỏ hình thức khoán thuế, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) phạm vi điều chỉnh: Các quy định về quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách Nhà nước và trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thuế, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực quản lý thuế.
Những nội dung mới so với Luật Quản lý thuế năm 2019 như: Quy định về phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế: Cơ quan thuế thực hiện dựa trên các tiêu chí như quy mô hoạt động, doanh thu, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, loại hình pháp lý, sở hữu, đặc thù hoạt động, nhằm đánh giá, quản lý rủi ro, áp dụng biện pháp quản lý phù hợp và phân bổ nguồn lực hiệu quả; Giao Bộ Tài chính quy định chi tiết việc thực hiện.
Việc xây dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi) nhằm tăng cường kiểm tra chặt chẽ với các hành vi trốn thuế và gian lận thuế. |
Lý do là việc quy định phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế để đáp ứng sự thay đổi của bối cảnh hiện đại hóa và chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế, nhằm chuyển phương thức quản lý thủ công sang quản lý theo rủi ro và mức độ tuân thủ. Quy định này là cơ sở pháp lý để cơ quan thuế tập trung nguồn lực vào nhóm rủi ro cao, đồng thời hỗ trợ và tạo thuận lợi cho nhóm tuân thủ tốt, nâng cao hiệu quả và khuyến khích tuân thủ tự nguyện.
Thực tiễn cho thấy người nộp thuế rất đa dạng về quy mô, lĩnh vực, hành vi tuân thủ, cần có cơ chế quản lý phân loại thay vì áp dụng chung một chế độ. Mô hình này đã được nhiều quốc gia như Úc, Anh, Hàn Quốc, Canada, Singapore áp dụng hiệu quả và được OECD khuyến nghị trong khuôn khổ quản lý tuân thủ thuế.
Việc phân nhóm người nộp thuế có thể triển khai ngay thông qua cơ sở dữ liệu ngành thuế, hệ thống thông tin hóa đơn, tờ khai, báo cáo tài chính, lịch sử tuân thủ và thông tin từ bên thứ ba. Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn chi tiết tiêu chí, quy trình phân nhóm và tổ chức giám sát thực hiện thông qua hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu tập trung.
Đối với kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử: Nếu nền tảng có chức năng thanh toán, tổ chức quản lý nền tảng (trong hoặc ngoài nước) khấu trừ, kê khai, nộp thay. Nếu nền tảng không có chức năng thanh toán, Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tự khai, tính và nộp thuế; Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hằng năm thuộc đối tượng không chịu thuế tự xác định và phải kê khai doanh thu thực tế phát sinh với cơ quan thuế theo quy định của Chính phủ.
Xác định số thuế phải nộp: Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh căn cứ vào mức doanh thu thực tế phát sinh hằng năm tự xác định số thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định pháp luật thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Đối với các loại thuế khác và các khoản thu khác phải nộp ngân sách nhà nước, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh xác định số thuế phải nộp theo quy định của pháp luật thuế và pháp luật có liên quan. Giao Chính phủ quy định cách xác định phương pháp tính thuế và số thuế giá trị gia tăng, thu nhập cá nhân phải nộp phù hợp thực tế.
Điểm mới trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi): Cơ quan thuế áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý về đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, nợ thuế, hoàn thuế, kiểm tra thuế, quản lý và sử dụng hóa đơn, chứng từ và các hoạt động nghiệp vụ khác.
Cơ quan Hải quan áp dụng quản lý rủi ro để quyết định kiểm tra thuế trong thực hiện thủ tục hải quan và các hoạt động nghiệp vụ khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh theo quy định của pháp luật Hải quan. Quản lý rủi ro bao gồm: thu thập, xử lý thông tin về thuế; xây dựng tiêu chí và tổ chức đánh giá, phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động quản lý thuế; tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp. Ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để tự động tích hợp, xử lý dữ liệu phục vụ việc áp dụng quản lý rủi ro.
https%3A%2F%2Fphapluat.tuoitrethudo.vn%2Fkinh-doanh-online-doanh-thu-rat-lon-nhung-nop-thue-lai-rat-nho-107573.html