Luật gồm 6 chương, 51 điều quy định về chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số; quản lý nhà nước về công nghiệp công nghệ số; công nghiệp bán dẫn; Trí tuệ nhân tạo (AI); tài sản số…
Hình thành doanh nghiệp công nghệ lớn
Luật CNCNS hướng tới việc tạo ra các doanh nghiệp “đầu tàu” dẫn dắt ngành công nghệ số thông qua các chính sách chiến lược. Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển các công nghệ tiên phong, đồng thời hỗ trợ tài chính và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường quốc tế.
Các doanh nghiệp lớn thực hiện dự án lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm và hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm.
Nhằm xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp CNCNS mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035, Luật đưa ra các chính sách hỗ trợ toàn diện. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công.

Về tài chính, Nhà nước hỗ trợ vốn đầu tư cho các dự án đặc biệt và kinh phí đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sáng tạo và cạnh tranh. Các dự án sản xuất CNCNS và doanh nghiệp phụ trợ nhận ưu đãi thuế tương tự khu vực đặc biệt khó khăn, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài để tăng cường năng lực sản xuất.
Làm chủ công nghệ lõi và công nghệ số chiến lược
Chương trình phát triển CNCNS được Luật CNCNS quy phạm hóa nhằm khuyến khích sáng tạo và sản xuất công nghệ nội địa. Các hoạt động xúc tiến, đào tạo, và hỗ trợ tài chính được triển khai để doanh nghiệp phát triển sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Sản phẩm, dịch vụ công nghệ số “Make in Vietnam” được ưu tiên trong mua sắm công và hỗ trợ mở rộng thị trường quốc tế, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh. Những nỗ lực này không chỉ thúc đẩy sự tự chủ công nghệ mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế số toàn cầu.
Để đảm bảo tự chủ công nghệ lõi, công nghệ số chiến lược và đảm bảo chủ quyền an ninh quốc gia về công nghệ, Luật CNCNS tập trung vào việc làm chủ công nghệ lõi và công nghệ số chiến lược. Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi cao nhất, bao gồm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án R&D và hỗ trợ tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu tiên tiến.

Để thúc đẩy phát triển AI một cách bền vững, an toàn và có trách nhiệm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Luật CNCNS đã lần đầu tiên đưa ra các chính sách khung chung và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Luật quy định các nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, đảm bảo minh bạch, an toàn và không phân biệt đối xử, với yêu cầu các hệ thống AI phải duy trì sự kiểm soát của con người. AI được phân loại thành các nhóm rủi ro cao, tác động lớn và không rủi ro cao, với các hệ thống rủi ro cao phải tuân thủ yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt và giám sát chặt chẽ.
Sản phẩm AI phải có dấu hiệu nhận dạng rõ ràng để đảm bảo tính minh bạch. Các chủ thể phát triển, cung cấp và triển khai AI chịu trách nhiệm quản lý rủi ro, bảo vệ dữ liệu cá nhân và duy trì an toàn mạng.
Nhà nước ưu tiên đầu tư kinh phí cho nghiên cứu AI, xây dựng hạ tầng như trung tâm dữ liệu AI, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp qua ưu đãi thuế và tài chính để đẩy nhanh đổi mới sáng tạo. Hợp tác quốc tế được khuyến khích thông qua tham gia các diễn đàn và thỏa thuận đa phương, giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến.
Đưa ra định nghĩa và khung pháp lý cho tài sản số
Để tận dụng tiềm năng kinh tế to lớn của tài sản số, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, an ninh và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế, Luật CNCNS lần đầu tiên đưa ra định nghĩa và quy định khung pháp lý về tài sản số, bao gồm tài sản mã hóa và tài sản ảo, phân loại theo mục đích sử dụng và công nghệ, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng.

Về tài sản số, luật quy định tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử.
Tài sản số bao gồm tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư. Tài sản ảo không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính.
Tài sản mã hóa là một loại tài sản số mà sử dụng công nghệ mã hóa hoặc công nghệ số có chức năng tương tự để xác thực đối với tài sản trong quá trình tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao.
Tài sản mã hóa không bao gồm chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính.
Ngoài ra, luật cũng quy định việc tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao, xác lập quyền sở hữu tài sản số; quyền, nghĩa vụ của các bên đối với hoạt động có liên quan đến tài sản số.
Biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh mạng; phòng chống rửa tiền, phòng, chống tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt…
https%3A%2F%2F1thegioi.vn%2Fthong-qua-luat-cong-nghiep-cong-nghe-so-ai-va-tai-san-so-co-khung-phap-ly-233715.html