Dù là địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng văn bằng sở hữu trí tuệ, Hà Nội vẫn gặp nhiều vướng mắc trong việc đưa tài sản trí tuệ vào thực tiễn sản xuất – kinh doanh. Từ doanh nghiệp đến trường đại học, nhiều sáng chế, nhãn hiệu vẫn chưa được ứng dụng vào thực tiễn bởi do thiếu vốn, thiếu cơ chế định giá và chưa gắn với nhu cầu thị trường.
![]() |
Theo thống kê, tỷ lệ thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam chỉ khoảng 0,1%, trong khi trung bình thế giới là 5%, còn các nước phát triển có thể lên đến 10%. Đồ họa: TT |
Chật vật thương mại hóa tài sản trí tuệ
Hà Nội hiện là địa phương đứng đầu cả nước về số lượng đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ tài sản trí tuệ, với hàng trăm nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý gắn với nông sản, làng nghề, đặc sản.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, phần lớn các tài sản này chưa được thương mại hóa hiệu quả. Nhiều sản phẩm chỉ dừng lại ở khâu quảng bá, thiếu chuỗi giá trị và chưa được đầu tư bài bản để phát triển thành thương hiệu mạnh trên thị trường.
Theo thống kê, tỷ lệ thương mại hóa sáng chế tại Việt Nam chỉ khoảng 0,1%, trong khi trung bình thế giới là 5%, còn các nước phát triển có thể lên đến 10%. Riêng tại Hà Nội, khoảng cách giữa việc sở hữu tài sản trí tuệ và việc khai thác giá trị từ nó vẫn rất lớn.
Tại khối doanh nghiệp, nhiều đơn vị sở hữu sáng chế, nhãn hiệu nhưng không thể đưa vào khai thác thương mại do vướng mắc lớn về pháp lý và tài chính.
Theo TS Võ Thy Trang (Khoa Kinh tế, Học viện Tài chính), thủ tục định giá tài sản trí tuệ hiện chưa có chuẩn mực rõ ràng, trong khi tài sản trí tuệ lại không được chấp nhận làm tài sản bảo đảm vay vốn. Chi phí bảo hộ cao, công nghệ cũng cần hoàn thiện thêm, khiến doanh nghiệp rất khó biến sáng chế thành lợi thế cạnh tranh.
Tại các trường đại học, nơi sản sinh lượng lớn công trình nghiên cứu, tình hình cũng không khả quan hơn. Ông Vũ Tuấn Anh, Ban Khoa học và Đổi mới sáng tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, giai đoạn 2020-2025, trường đã đăng ký hơn 300 đơn sở hữu trí tuệ. Nhiều kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, môi trường, y dược đã được chuyển giao, nhưng phần lớn vẫn ở quy mô phòng thí nghiệm.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ thiếu vốn, thiếu tổ chức trung gian kết nối thị trường, và đặc biệt là khoảng cách giữa nghiên cứu học thuật và nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. “Các nhà khoa học vẫn ưu tiên công bố quốc tế hơn là đăng ký bảo hộ, dẫn đến tình trạng nhiều sáng chế không thể ứng dụng vào thực tế,” ông Vũ Tuấn Anh chia sẻ.
Không chỉ ở lĩnh vực công nghệ cao, nhiều tài sản trí tuệ cộng đồng như nhãn hiệu làng nghề, đặc sản địa phương cũng chưa được khai thác hiệu quả do thiếu cơ chế quản lý và phát triển chuyên nghiệp.
Ông Đào Thế Hà, Phó Trưởng phòng Văn hóa – Xã hội (phường Sơn Tây) cho biết, địa phương đã sở hữu nhiều tài sản trí tuệ như: Chỉ dẫn địa lý “gà Mía Sơn Tây”; nhãn hiệu tập thể “bánh tẻ Phú Nhi”, “tương Đường Lâm”; nhãn hiệu chứng nhận “mít Sơn Tây”… Tuy nhiên, việc thương mại hóa vẫn gặp nhiều vướng mắc.
Theo ông Hà, thủ tục cấp văn bằng kéo dài, thiếu tổ chức quản lý chuyên nghiệp, tiêu chuẩn sản phẩm chưa đồng bộ, kênh phân phối còn yếu… chính là những rào cản lớn khiến nhiều sản phẩm không thể khai thác hết giá trị.
Hoàn thiện pháp lý, tăng cường bảo hộ tài sản trí tuệ
Theo đánh giá chung, Hà Nội có tiềm năng rất lớn về tài sản trí tuệ, song khai thác chưa hiệu quả do hành lang pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu cơ chế tài chính, quản trị manh mún và nhận thức cộng đồng chưa đầy đủ.
Đặc biệt, nguồn nhân lực chuyên sâu về định giá, quản lý và thương mại hóa tài sản trí tuệ còn rất hạn chế. Điều này khiến doanh nghiệp và các tổ chức khoa học – công nghệ gặp khó trong quá trình chuyển giao và ứng dụng.
Theo ông Nguyễn Hoàng Giang, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), để tháo gỡ vướng mắc trên, thời gian tới, Hà Nội cần phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước như WIPO, VCCI, Cục Sở hữu trí tuệ để tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu cho cán bộ, doanh nghiệp, viện nghiên cứu.
Bên cạnh đó, đưa môn “Quản trị tài sản trí tuệ” vào chương trình đào tạo đại học, đặc biệt với khối kinh tế và kỹ thuật. Tận dụng các nguồn lực đào tạo từ WIPO Academy để nâng cao năng lực thương mại hóa tài sản trí tuệ.
Đồng thời, tăng cường bảo hộ tài sản trí tuệ trên thương mại điện tử. Các chuyên gia khuyến nghị, Hà Nội cần ứng dụng công nghệ số, AI, blockchain để giám sát trực tuyến, phát hiện vi phạm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và cộng đồng.
Một số đề xuất khác cũng được đưa ra để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ như: Thí điểm cơ chế sandbox cho các mô hình kinh tế mới; xây dựng hệ sinh thái định giá tài sản trí tuệ, hỗ trợ thử nghiệm các chương trình bảo lãnh với sự tham gia của các ngân hàng lớn, dưới sự bảo trợ của WIPO. Đặc biệt là áp dụng cơ chế ưu đãi về thuế, mua sắm công để khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức đầu tư vào phát triển tài sản trí tuệ.
Với vị thế trung tâm đổi mới sáng tạo, nơi quy tụ nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp khởi nghiệp và cộng đồng sáng tạo, Hà Nội có cơ hội lớn để hình thành hệ sinh thái sở hữu trí tuệ hiện đại và hiệu quả.
Tuy nhiên, để làm được điều đó, TP Hà Nội cần một chiến lược đồng bộ, từ xây dựng khung pháp lý rõ ràng, đào tạo nhân lực chất lượng cao đến tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn và khai thác giá trị của sáng chế, nhãn hiệu trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
https%3A%2F%2Fthuehaiquan.tapchikinhtetaichinh.vn%2Ftan-dung-loi-the-de-thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-199803.html