Để hàng hóa Việt Nam khẳng định vị thế, thì chất lượng sản phẩm tốt thôi chưa đủ. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, một chuỗi giá trị bền vững, minh bạch, cùng khả năng thích ứng linh hoạt với biến động thị trường – mới thực sự là “tấm hộ chiếu” giúp sản phẩm Việt vươn xa.

Trong đó, việc tăng cường liên kết thị trường, ổn định chuỗi cung ứng, kết hợp sức mạnh thương mại điện tử và chuyển đổi số logistics – đang trở thành động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
Thương mại điện tử – trụ cột phân phối hiện đại
Những năm gần đây, thương mại điện tử không còn xa lạ, mà đã trở thành kênh phân phối quan trọng của hàng Việt. Năm 2024, quy mô thị trường đạt trên 25 tỷ USD, tăng trưởng khoảng 20% so năm trước, chiếm 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Với kết quả này, Việt Nam giữ vững vị trí trong nhóm 3 thị trường thương mại điện tử lớn nhất Đông Nam Á.
Sự bùng nổ của mua sắm trực tuyến, đã tạo cơ hội để doanh nghiệp rút ngắn khâu trung gian, giảm chi phí vận hành, đồng thời tiếp cận khách hàng nhanh chóng hơn. Thậm chí, chỉ trong 1 phiên livestream kéo dài 2 – 3 giờ, hàng chục tấn nông sản có thể được tiêu thụ – điều khó tưởng tượng với phương thức bán hàng truyền thống.
Tại Hội thảo “Tăng cường liên kết thị trường, ổn định chuỗi cung ứng và cải thiện năng lực cạnh tranh” – do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức mới đây, Trung tâm Phát triển thương mại điện tử và Công nghệ số – Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) Bùi Huy Hoàng nhấn mạnh:
“Đại dịch Covid-19 cho thấy rõ vai trò “phao cứu sinh” của thương mại điện tử. Ngày nay, cùng với livestream, chợ trực tuyến hay mô hình đa kênh, thương mại điện tử tiếp tục là kênh quảng bá, xây dựng thương hiệu hiệu quả cho sản phẩm nông sản, đặc sản địa phương và hàng tiêu dùng công nghiệp”.
Về hành lang pháp lý, ông Hoàng cho biết, Bộ Công Thương đang xây dựng Luật Thương mại điện tử – văn bản được kỳ vọng trở thành “xương sống” cho sự phát triển bền vững của thị trường. Song song đó, nhiều chương trình xúc tiến, đào tạo và hỗ trợ doanh nghiệp số hóa, đã được triển khai như Go-Right (pháp lý thương mại điện tử), GoOnline (kinh doanh trực tuyến), GoExport (xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới) và Go-AI (ứng dụng Trí tuệ nhân tạo).
Đó được xem là nền tảng quan trọng, giúp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, bắt kịp xu thế số hóa toàn cầu.

Chuyển đổi số logistics – “nút thắt” cần tháo gỡ
Nếu như, thương mại điện tử là kênh phân phối hiện đại, thì logistics chính là “hệ thần kinh” của chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, Phó giám đốc Trung tâm Phát triển thương mại điện tử và Công nghệ số chỉ ra rằng, ngành logistics Việt Nam còn nhiều bất cập: Hạ tầng kho bãi thiếu đồng bộ, vận tải phụ thuộc chủ yếu vào đường bộ dễ ùn tắc, chi phí logistics chiếm tới 16 – 18% GDP, cao hơn mức trung bình toàn cầu, nhân sự còn làm việc thủ công…
Ở góc độ doanh nghiệp, Tổng giám đốc Công ty Inotev, Hoàng Nguyên Vũ cho rằng, những hạn chế nêu trên, làm giảm hiệu quả hoạt động, đội chi phí, gây khó trong kiểm soát chất lượng.
Theo ông Hoàng Nguyên Vũ, chuyển đổi số – chính là giải pháp đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh. Các hệ thống quản lý kho thông minh (WMS), tự động hóa kho bãi, kết nối API với sàn thương mại điện tử, cùng với việc theo dõi vận chuyển thời gian thực qua IoT và GPS, sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình, tiết kiệm chi phí, giảm sai sót và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Bên cạnh đó, việc đào tạo nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực logistics và thương mại điện tử – được xem là điều kiện tiên quyết. Theo Phó giám đốc Trung tâm Thương mại điện tử và Công nghệ số Bùi Huy Hoàng, chỉ khi có đội ngũ am hiểu và thành thạo kỹ năng số, doanh nghiệp mới khai thác hiệu quả các công cụ hiện đại đó. Để đạt được yếu tố này, các chương trình đào tạo chuyên sâu về pháp lý, kinh doanh trực tuyến, xuất khẩu xuyên biên giới và ứng dụng AI trong thương mại điện tử, sẽ là những công cụ hỗ trợ đắc lực.
Ngoài ra, các giải pháp công nghệ như tem điện tử, QR code, NFC, RFID… đang ngày càng phổ biến, giúp truy xuất nguồn gốc, bảo vệ thương hiệu; và đặc biệt quan trọng khi xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu cao về minh bạch như EU, Mỹ, Nhật Bản…

Minh bạch nguồn gốc – yếu tố sống còn
Không chỉ thương mại điện tử và logistics, minh bạch nguồn gốc hàng hóa, cũng là “nút thắt” cần tháo gỡ.
Phó cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công Thương) Bùi Nguyễn Anh Tuấn nhìn nhận: “Hệ thống phân phối là “hệ thần kinh” của thị trường nội địa, kết nối sản xuất – lưu thông – tiêu dùng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay chính là minh bạch nguồn gốc hàng hóa”.
Theo Phó cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, có tới 70% vi phạm về hàng giả, hàng nhái, hàng không rõ xuất xứ, tập trung ở chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ.
Tính đến cuối năm 2024, cả nước có 8.274 chợ, 276 trung tâm thương mại, 1.293 siêu thị, trong đó chợ hạng I, II, tập trung chủ yếu ở đô thị, còn chợ hạng III chiếm đa số ở nông thôn, miền núi. Sự chênh lệch về hạ tầng, phương thức quản trị và chất lượng dịch vụ, đã tạo ra kẽ hở cho gian lận thương mại trong hoạt động kinh doanh.
“Năm 2024, lực lượng quản lý thị trường xử lý hơn 47.000 vụ vi phạm; 9 tháng 2025, phát hiện trên 15.000 vụ. Con số này cho thấy, nhu cầu cấp bách phải chuẩn hóa và số hóa chuỗi cung ứng”, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn nhấn mạnh.
Cũng theo Phó cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, để minh bạch thị trường hàng hóa, hàng lang pháp lý cơ bản đã được triển khai đồng bộ. Ví như, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (sửa đổi) 2025 – sẽ có hiệu lực từ năm 2026, theo đó, bổ sung quy định truy xuất nguồn gốc, hộ chiếu số sản phẩm (DPP) và yêu cầu công khai thông tin trên nền tảng số. Cùng với đó là Thông tư 02/2024/TT-BKHCN và dự thảo nghị định về định danh, xác thực sản phẩm…, những hàng rào pháp lý mới này, sẽ góp phần thúc đẩy minh bạch thị trường trong bối cảnh hiện nay.
Nhấn mạnh vai trò của ứng dụng công nghệ trong lưu thông hàng hóa, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn cho hay, minh bạch là trung tâm, công nghệ là đòn bẩy, liên thông dữ liệu là phương thức. Theo đó, mục tiêu giai đoạn 2026 – 2028, 100% sàn thương mại điện tử và siêu thị phải hiển thị DPP/QR; lực lượng quản lý thị trường thực hiện kiểm tra hoàn toàn trên nền tảng số; truy xuất bắt buộc với nhóm hàng rủi ro cao như thực phẩm tươi sống, dược – mỹ phẩm, phân bón, xăng dầu, điện tử.
Đồng thời, sẽ hình thành Cổng truy xuất quốc gia, kết nối liên thông với ASEAN và EU.
Để đạt được mục tiêu, ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn đề xuất, chúng ta cần triển khai: Hoàn thiện chuẩn thể chế và tiêu chuẩn dữ liệu; xây dựng hạ tầng số và nền tảng truy xuất quốc gia; quản lý theo mức độ rủi ro, áp dụng bắt buộc với nhóm hàng nguy cơ cao;
Thực thi cưỡng chế số như trang bị ứng dụng scan, kết nối dữ liệu vi phạm, cảnh báo liên ngành; truyền thông, nâng cao năng lực qua chương trình “Quét để biết – mua hàng chuẩn”, hỗ trợ số hóa OCOP, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Doanh nghiệp Việt và bài toán hội nhập chuỗi giá trị
Dữ liệu từ CIEM năm 2024 cho thấy, Việt Nam mới tham gia được 21% chuỗi giá trị toàn cầu, thấp hơn nhiều so các nước trong khu vực.
Tỷ trọng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 12,7%, trong khi khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp tới gần 49% giá trị gia tăng ngành chế biến, chế tạo.
Số liệu của Bộ Công Thương, năm 2023. chỉ khoảng 2,5% số doanh nghiệp Việt đủ khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp nắm giữ công nghệ lõi chưa đến 0,3%; chỉ 17% doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng công nghệ 4.0 – một tỷ lệ thấp so mặt bằng khu vực. Tỷ lệ giá trị gia tăng trong xuất khẩu của Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng 18 – 20% trong các ngành công nghiệp trọng yếu như điện tử, dệt may…
Khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, có 64,7% số doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu; chỉ 15,3% doanh nghiệp có chiến lược tổng thể dài hạn. Khả năng đáp ứng yêu cầu của đối tác khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của doanh nghiệp Việt Nam, mới chỉ ở mức trung bình.
Điều đó, phản ánh rõ thực tế, doanh nghiệp Việt hội nhập còn hạn chế, khả năng đáp ứng yêu cầu khắt khe từ đối tác quốc tế, mới chỉ ở mức trung bình. Trong khi đó, xu hướng toàn cầu ngày càng nghiêng về phát triển bền vững, giảm phát thải carbon, chuyển đổi xanh và số hóa thương mại.
Nếu Việt Nam không nhanh chóng thích ứng, doanh nghiệp sẽ khó giữ chỗ đứng và mở rộng thị phần xuất khẩu.

“Chìa khóa” để hàng Việt vượt qua thách thức
Phó cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại Bùi Quang Hưng nhận định, nền kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức như tăng trưởng không đồng đều, xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng và những bất ổn về địa chính trị. Những điều này, tác động mạnh mẽ đến chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đối với thị trường quốc tế, các yêu cầu về phát triển bền vững, giảm phát thải carbon, chuyển đổi xanh và số hóa, đang dần trở thành những tiêu chuẩn bắt buộc. Các doanh nghiệp Việt Nam, muốn duy trì và mở rộng thị phần xuất khẩu, buộc phải nhanh chóng thích ứng.
Trong khi đó, thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân, vẫn chưa được khai thác triệt để. Sự kết nối giữa sản xuất, phân phối và tiêu dùng còn lỏng lẻo. Chi phí trung gian cao, việc kiểm soát chất lượng hàng hóa, phòng chống hàng giả, hàng nhái còn nhiều bất cập, gây ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của người tiêu dùng.
Trước bối cảnh đó, việc tăng cường liên kết thị trường, có ý nghĩa then chốt, giúp gắn kết chặt chẽ giữa các khâu sản xuất – phân phối – tiêu thụ, tạo dòng chảy thông suốt của hàng hóa, giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Liên kết giữa các mắt xích từ khâu sản xuất, chế biến, đến phân phối và tiêu dùng, sẽ giúp giảm thiểu chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo nguồn cung ổn định.
Đồng thời, ổn định chuỗi cung ứng – là yếu tố nền tảng để đảm bảo sự phát triển bền vững. Một chuỗi cung ứng được kết nối chặt chẽ, minh bạch và thích ứng tốt với biến động, sẽ giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất liên tục, đáp ứng kịp thời nhu cầu của cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, liên kết thị trường, thương mại điện tử, logistics hiện đại và minh bạch nguồn gốc, không chỉ là xu hướng, mà đã trở thành điều kiện sống còn cho hàng hóa Việt. Đây cũng chính là nền tảng để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đi kèm thách thức mới, thì “chìa khóa” để hàng Việt vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội và vươn tầm quốc tế không nằm ở từng mắt xích riêng lẻ, mà ở sự phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu dùng, trên nền tảng công nghệ và hành lang pháp lý minh bạch.
Phan Chinh
https%3A%2F%2Fthuonghieucongluan.com.vn%2Flien-ket-thi-truong-chuoi-cung-ung-on-dinh-chia-khoa-dua-hang-viet-vuon-xa-a285401.html