Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ đã cập nhật khung pháp lý cho chuyển giao, thương mại hóa, ứng dụng và làm chủ công nghệ.
Luật mới được Quốc hội thông qua ngày 10/12, được đánh giá có nhiều nội dung sửa đổi mang tính toàn diện, trong đó có những vấn đề lớn như công nghệ xanh – sạch, bổ sung cơ chế phù hợp xu thế phát triển của khoa học và công nghệ toàn cầu, cũng như làm rõ các khái niệm, mở rộng phạm vi điều chỉnh, tăng tính minh bạch và kiểm soát trong hoạt động chuyển giao công nghệ.

Một số mẫu chip dùng trong thiết bị IoT do Viện CNTT – Đại học Quốc gia Hà Nội nghiên cứu, phát triển. Ảnh: Trọng Đạt
Luật đưa ra nhiều chính sách ưu tiên mới, trong đó ưu tiên chuyển giao công nghệ cao, công nghệ chiến lược, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ phục vụ dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, công nghệ phục vụ quốc phòng, an ninh từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao trong nước.
Đồng thời, luật đẩy mạnh việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ chiến lược từ nước ngoài vào Việt Nam; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước; chú trọng lan tỏa công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ chiến lược từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang doanh nghiệp trong nước.
Việc tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện hoạt động chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân Việt Nam nhằm nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ trong nước cũng được khuyến khích. Việc chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận giữa các bên, bảo đảm tuân thủ pháp luật về sở hữu trí tuệ và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nhà nước ưu tiên áp dụng chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế, đất đai, tín dụng cùng các biện pháp khuyến khích khác đối với dự án đầu tư nước ngoài có nội dung chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo hoặc ứng dụng công nghệ tại Việt Nam.
Nhà nước khuyến khích góp vốn bằng công nghệ được tạo ra từ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tại Việt Nam thông qua các biện pháp hỗ trợ thẩm định giá, xác lập quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ hợp pháp. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, quy định này khắc phục tình trạng “đóng băng” kết quả nghiên cứu, biến tri thức thành tài sản có thể giao dịch, đầu tư.
Một điểm quan trọng khác là luật bổ sung định nghĩa “công nghệ xanh” và đưa “công nghệ xanh”, “công nghệ sạch” vào danh mục ưu tiên chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển giao trong nước. Trong đó, công nghệ xanh là công nghệ nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải, thân thiện với môi trường, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững.
Riêng công nghệ xanh từ nước ngoài phải phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, được chuyển giao khi đáp ứng yêu cầu tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới. Việc nhập khẩu, giải mã, làm chủ công nghệ cao, công nghệ chiến lược, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, công nghệ xanh sẽ phục vụ mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, ngành, vùng, địa phương.
Luật mới cũng mở rộng khái niệm chuyển giao công nghệ, nhấn mạnh yếu tố đổi mới sáng tạo và yêu cầu bảo đảm bên nhận có khả năng tiếp nhận, vận hành, làm chủ và cải tiến công nghệ với mục tiêu nâng cao hiệu quả chuyển giao, hạn chế phụ thuộc vào công nghệ từ bên ngoài mà không phát triển năng lực nội sinh. Bên nhận chuyển giao công nghệ có quyền cải tiến, phát triển và khai thác công nghệ trên cơ sở công nghệ được chuyển giao theo pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật khác có liên quan.
Bên cạnh đó, nhà nước sẽ ưu tiên mua và phổ biến công nghệ, gồm quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ nhằm các mục đích phục vụ quốc phòng, an ninh, hoạt động giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Việc mua công nghệ phải bảo đảm yêu cầu về giá trị sử dụng, phù hợp năng lực triển khai, quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng và sử dụng ngân sách minh bạch, hiệu quả. Nhà nước cũng góp phần phổ biến công nghệ bằng một hoặc nhiều hình thức như miễn phí, ưu đãi hoặc cấp quyền sử dụng có điều kiện, đồng thời đóng vai trò thúc đẩy hợp tác cùng phát triển công nghệ để nâng cao năng lực của tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam.
Để nâng cao hiệu quả quản lý, Luật bổ sung quy định về quy trình thẩm định công nghệ trong dự án đầu tư, đặc biệt với công nghệ hạn chế chuyển giao hoặc có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Việc tiếp nhận, thẩm định và cấp phép chuyển giao công nghệ sẽ quy định rõ trách nhiệm UBND cấp tỉnh thay vì Bộ như trước, qua đó giảm bớt tầng trung gian giúp dự án đi vào hoạt động nhanh hơn.
Các hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả chuyển giao công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cũng được tăng cường. Luật khuyến khích công khai thông tin chuyển giao công nghệ trên nền tảng số quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Thúc đẩy việc khai thác, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, ý tưởng công nghệ phục vụ doanh nghiệp, cá nhân, nhóm cá nhân khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
Với doanh nghiệp và thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Luật hỗ trợ đổi mới công nghệ thông qua Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, quỹ phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các hình thức hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước đóng vai trò đầu tư phát triển mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, Nhà nước sẽ dành ngân sách để phát triển mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ có chức năng ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, các trung tâm đổi mới sáng tạo, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ thực hiện hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, cá nhân kinh doanh áp dụng các quy trình, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sẵn có, phương pháp quản lý đã được kiểm chứng về hiệu quả để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hàng năm, sẽ có kiểm tra, đánh giá định kỳ về hiệu quả chuyển giao công nghệ đối với các chương trình, dự án, nhiệm vụ có sử dụng ngân sách nhà nước tại địa phương, xây dựng, quản lý và cập nhật hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin, thống kê về hoạt động chuyển giao, ứng dụng và đổi mới công nghệ và báo cáo Bộ Khoa học và Công nghệ.
Luật sửa đổi, bổ sung của Luật Chuyển giao công nghệ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2026. Riêng một số quy định về thủ tục chấp thuận và cấp phép chuyển giao công nghệ sẽ có hiệu lực ngay sau khi Quốc hội thông qua.
Bảo Lâm
Góp ý kiến tạo
Bạn có thể đặt mọi câu hỏi, vấn đề về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi số trực tiếp cho Bộ Khoa học và Công nghệ
https%3A%2F%2Fvnexpress.net%2Fnhung-thay-doi-cua-luat-chuyen-giao-cong-nghe-4992969.html




